Làm gì để kinh tế Việt Nam cất cánh?

TP - Theo các chuyên gia, năm 2025 được dự báo kinh tế Việt Nam có nhiều thuận lợi nhưng cũng đối mặt không ít thách thức trong việc vượt khó khăn, tăng trưởng và thực hiện cải cách để đạt mục tiêu đề ra.

Đẩy mạnh cải cách, chuyển hướng nền kinh tế

Trao đổi với PV Tiền Phong về thành tựu năm 2024, cơ hội, thách thức năm 2025, TS Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) cho rằng, năm 2024 là một năm đầy cơ hội và thử thách đối với kinh tế

Kinh tế Việt Nam phải vượt qua nhiều khó khăn, thách thức năm 2025. Ảnh: Nguyễn Bằng

Nhiều thành tựu, có thể nói là đột phá đã được ghi nhận với nền kinh tế khi Chính phủ, bộ ngành và các doanh nghiệp đã nhanh chóng chuyển đổi thích ứng với các yêu cầu liên quan cách mạng công nghiệp 4.0, chuyển đổi sang kinh tế số, doanh nghiệp số, Chính phủ điện tử, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn…

Đặc biệt, năm 2024, lĩnh vực nông nghiệp xanh với những thay đổi mạnh mẽ về khoa học - công nghệ, nông dân, nông thôn, không chỉ bảo đảm an ninh lương thực mà còn đạt kỷ lục về xuất khẩu dự kiến 54 - 55 tỷ USD, vững bước tiến tới mục tiêu xuất khẩu đạt 60 tỷ USD. Thành tựu này càng quý báu trong bối cảnh nhiều nước gặp khủng hoảng nghiêm trọng về lương thực, nạn đói…

Theo ông Doanh, việc ông Donald Trump làm Tổng thống Mỹ từ năm 2025 với những hứa hẹn làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại, đánh thuế hàng nhập khẩu cũng đặt ra những câu hỏi về cơ hội và thách thức đối với Việt Nam trong khi nước Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam.

Với một quốc gia có nền kinh tế mở như Việt Nam, việc các hàng rào thuế quan và các tiêu chuẩn kỹ thuật để bảo vệ thị trường nội địa được các nước thực hiện ngày càng nhiều hơn vừa tạo ra cơ hội nhưng cũng mang đến không ít thách thức đối với kinh tế Việt Nam trong năm 2025.

Để đạt được mục tiêu đề ra, theo TS Lê Đăng Doanh, với dân số 100 triệu dân, nước ta đang có khoảng 930.000 doanh nghiệp hoạt động, trong đó 98% là doanh nghiệp nhỏ và vừa, có 14.400 hợp tác xã và 5,2 triệu hộ gia đình kinh doanh, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp 46% GDP, 30% thu ngân sách và tạo ra 85% việc làm. Có thể thấy, để phát triển nền kinh tế cần gấp đôi số doanh nghiệp hoạt động trên để tạo công ăn việc làm cho người đến tuổi lao động.

Việc hướng các doanh nghiệp phát triển bám sát xu thế chuyển dịch sản xuất của kinh tế, doanh nghiệp quốc tế cũng là yêu cầu đặt ra với Chính phủ và các bộ ngành, doanh nghiệp thời gian tới.

Theo báo cáo của Bộ Công Thương, thương mại điện tử và kinh tế Internet của Việt Nam sẽ ngày càng đóng vai trò quan trọng trong các năm tới. Dự báo trong giai đoạn 2022 - 2025, kinh tế Internet Việt Nam sẽ có tốc độ tăng trưởng dẫn đầu khu vực đạt khoảng 31%/năm.

Việt Nam được ghi nhận là một trong 10 quốc gia có tốc độ tăng trưởng thương mại điện tử cao nhất thế giới, dẫn đầu Đông Nam Á. Theo Modor Intelligence, quy mô thị trường thương mại điện tử Việt Nam ước đạt 14,7 tỷ USD trong năm 2024 và dự kiến sẽ đạt 23,77 tỷ USD vào năm 2029, tăng trưởng với tốc độ CAGR là 10,09% trong giai đoạn dự báo (2024-2029).

Cùng với phát triển kinh doanh qua thương mại điện tử, việc đầu tư và hướng phát triển của doanh nghiệp trong lĩnh vực tài chính công nghệ (FinTech), vốn đang phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam, cũng sẽ là bước đi đúng trong giai đoạn phát triển tới của đất nước.

“Theo báo cáo của Hãng nghiên cứu thị trường Statista, Việt Nam là quốc gia xếp thứ 2, với tỷ lệ 33,2% người thanh toán qua di động. Các quốc gia xếp tiếp theo lần lượt là Hàn Quốc (27,5%), Vương quốc Anh (26,7%), Ấn Độ (26,6%), Mỹ (25,6%). Vì vậy, Việt Nam cần nỗ lực hơn nữa để tận dụng những cơ hội của chuyển đổi số trong thời gian tới”, ông Doanh lưu ý.

Việc gỡ các điểm nghẽn của “điểm nghẽn” tồn tại nhiều năm liên quan đến thể chế, hạ tầng và nhân lực cũng là những đầu việc quan trọng phải thực hiện trong thời gian tới.

Đây cũng là vấn đề được đích thân Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ rõ tại kỳ họp Quốc hội vừa qua. Với thông điệp được Tổng Bí thư đưa ra, việc tinh gọn bộ máy, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển cũng là những mục tiêu mà Chính phủ và các bộ ngành phải tập trung thực hiện trong năm tới.

Hiện các doanh nghiệp vẫn còn than phiền một số không ít cán bộ, viên chức e ngại trách nhiệm, thiếu năng động, đùn đẩy công việc, kéo dài quá trình quyết định, gây bất lợi cho doanh nghiệp.

“Đây là vấn đề cần sớm xử lý. Nếu tập trung hoàn thành sớm, có thể hy vọng, kinh tế nước ta bước sang Đổi Mới lần 2, tạo thêm cơ hội cho doanh nghiệp phát triển, kinh tế đất nước có sự tăng trưởng vượt bậc trong thời gian tới”, ông Doanh nhấn mạnh.

Trao thực quyền cho doanh nghiệp Nhà nước

Trao đổi với phóng viên Tiền Phong về những thành tựu đạt được trong năm qua và những cơ hội, thách thức cho doanh nghiệp, nền kinh tế trong năm 2025, PGS.TS Đinh Trọng Thịnh (Học viện Tài chính) khẳng định, kinh tế Việt Nam năm 2024 có thể nói đã đạt được những kết quả rất tốt khi tăng trưởng GDP ước đạt trên 7% và lạm phát dưới 4%, xuất nhập khẩu vượt 800 tỷ USD, xuất siêu 27 - 28 tỷ USD.

Ông Thịnh lạc quan tin tưởng kinh tế sẽ tăng trưởng tốt trong năm 2025. “Tôi dự báo hai kịch bản cho nền kinh tế Việt Nam trong năm 2025. Ở kịch bản thận trọng, chúng ta sẽ có mức tăng trưởng GDP từ 6,8 - 7,3% với lạm phát ổn định trong khoảng 3,2 - 3,5%. Còn trong kịch bản tích cực, GDP có thể đạt từ 7,3-7,8% và lạm phát nằm trong mức 3,5-3,8%.

Để hiện thực hóa các mục tiêu này, chúng ta cần tập trung vào việc duy trì các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, thu hút vốn đầu tư nước ngoài và cải thiện hạ tầng để tối ưu hóa chi phí và thời gian vận chuyển”, ông Thịnh nói.

Làm gì để kinh tế Việt Nam cất cánh? ảnh 2

Liên quan đến phát triển kinh tế, theo vị chuyên gia này, cần vực dậy và có các cơ chế đặc thù để các “quả đấm thép” là các tập đoàn, tổng công ty được cởi trói đúng nghĩa, có đà phát triển về mọi mặt. Đây là điểm quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế Việt Nam năm tới.

Đánh giá về những khó khăn, vướng mắc của các doanh nghiệp Nhà nước trong năm qua, ông Thịnh cho hay khó khăn vướng mắc chủ yếu ở vai trò đầu tàu và tỉ suất lợi nhuận (lợi nhuận/vốn) thấp so với khu vực khác.

Doanh nghiệp Nhà nước có vốn lớn, công nghệ, thiết bị máy móc tương đối hiện đại nhưng lợi nhuận đem lại chưa tương xứng và chưa thể hiện rõ vai trò là hạt nhân kết nối doanh nghiệp vừa và nhỏ để tạo ra sản phẩm mang thương hiệu quốc gia mạnh mẽ, từ đó các sản phẩm có thể vươn ra thị trường thế giới, tạo ra dấu ấn như mong muốn vươn mình.

Có thể nói vai trò đầu tàu, hạt nhân trong phát triển kinh tế xã hội của doanh nghiệp Nhà nước chưa thể hiện đúng mức. Tỉ lệ lợi nhuận/vốn đầu tư có nhiều vấn đề cần xem xét.

Theo ông Thịnh, hướng tháo gỡ những khó khăn vướng mắc này chính là việc mạnh dạn giao quyền lớn hơn cho các doanh nghiệp lớn của Nhà nước, tăng tính tự chủ của doanh nghiệp. Khi đó, họ sẽ có thẩm quyền lương thưởng cao hơn, rộng rãi hơn để thu hút được nhân tài một cách thỏa đáng.

Việc kiểm tra giám sát cũng cần thay đổi, không để những quy định bất cập mà ngáng trở sự phát triển. Từ đó doanh nghiệp có thể chủ động thực hiện mục tiêu Nhà nước đề ra và có quyền tự chủ sáng tạo cao nhất.

Theo đó, cũng cần có cơ chế hợp tác với doanh nghiệp vừa và nhỏ, cần có các quy định thỏa đáng đáp ứng được yêu cầu phát triển của doanh nghiệp Nhà nước. Từ đó doanh nghiệp mới có khả năng tài chính, cơ sở pháp lí để kết nối hiệu quả.

Năm 2025 tạo đà để kinh tế Việt Nam cất cánh

Chuyên gia kinh tế, TS Vũ Đình Ánh, nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Thị trường - Giá cả (Bộ Tài Chính) đánh giá năm 2024 là một năm thành công với tốc độ tăng trưởng kinh tế dự kiến trên dưới 7%, vượt mục tiêu 6,5%. Ông Ánh đánh giá tốc độ tăng trưởng như vậy nhưng vẫn giữ ổn định kinh tế vĩ mô, lạm phát dưới ngưỡng 4% và nhờ đó, tăng trưởng kinh tế khá bền vững…là những thành tựu được quốc tế ghi nhận.

Theo ông Ánh, thành tích tăng trưởng năm 2024 có được là nhờ sự phục hồi tốt của ngành công nghiệp, đặc biệt ngành công nghiệp chế tạo quay lại tốc độ tăng trưởng 10%. Ngành dịch vụ cũng khả quan khi thu hút được gần 15 triệu khách quốc tế, gần phục hồi như trước khi đại dịch COVID-19 xảy ra. Mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ hàng hóa toàn xã hội tuy chưa đạt 10% như trước đây nhưng cũng đạt được 8-9%.

Nổi bật nhất là xuất khẩu. Mặc dù thị trường thế giới không thuận lợi nhưng xuất khẩu của Việt Nam vẫn đạt 2 con số. Xếp hạng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt top 20 thế giới. Xuất khẩu của Việt Nam 5 năm trở lại đều thặng dư.

Năm 2025, TS Vũ Đình Ánh dự đoán khả năng Việt Nam sẽ lập kỉ lục về thặng dư cán cân thương mại. Năng lực xuất khẩu của Việt Nam tăng lên một bước và bước đi đó khá chắc chắn.

“Từ năm 2025, nhiều tín hiệu cho thấy Việt Nam bước vào chu kì tăng trưởng kinh tế mới. Thậm chí nếu có chính sách đúng hướng, vận động đúng hướng, sẽ bước vào chu kì chưa bao giờ chứng kiến”. TS Vũ Đình Ánh

Về những thuận lợi cũng như thách thức của kinh tế Việt Nam năm 2025, TS Vũ Đình Ánh cho hay, Chính phủ đặt mục tiêu tăng trưởng 8%, quay trở lại giai đoạn 2004 - 2007. Đây là mục tiêu hoàn toàn khả thi với các yếu tố hỗ trợ cho tăng trưởng đã hình thành từ năm 2024.

“Từ năm 2025, nhiều tín hiệu cho thấy Việt Nam bước vào chu kì tăng trưởng kinh tế mới. Thậm chí nếu có chính sách đúng hướng, vận động đúng hướng, sẽ bước vào chu kì chưa bao giờ chứng kiến”, ông Ánh nói và cho rằng mục tiêu tăng trưởng hằng năm sau 2025 có thể lên tới 2 con số và Việt Nam sẽ đúng theo nghĩa “cất cánh”. “Năm 2025 tạo đà không chỉ cho vài năm tiếp theo mà đưa Việt Nam sang giai đoạn tăng trưởng hoàn toàn khác”, ông nói thêm.

Để đạt mục tiêu đề ra, vị chuyên gia cho rằng, cần đẩy nhanh việc tinh gọn sắp xếp bộ máy, giảm những người không làm việc, cản trở sự vận hành của bộ máy đồng thời gắn với việc lớn là xác lập lại vai trò, chức năng quản lí của Nhà nước trong nền kinh tế. Theo đó, Nhà nước thực hiện đúng vai trò quản lí, còn lại để thị trường điều tiết.

Nhiều thách thức về xử lý nợ xấu, sở hữu chéo

TS. Phan Phương Nam, Đại học Luật TPHCM cho rằng, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2024 ước đạt trên 7% GDP đã giúp đất nước thuộc số ít các nước có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực và thế giới trong khi duy trì bội chi, nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài thấp hơn chỉ tiêu cho phép. Thị trường tiền tệ, tỉ giá cơ bản ổn định, mặt bằng lãi suất tiếp tục có xu hướng giảm so với năm 2023.

Bên cạnh những kết quả đạt được, theo ông Nam, kinh tế Việt Nam vẫn tồn tại những hạn chế, bất cập và tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức. Ổn định kinh tế vĩ mô còn tiềm ẩn rủi ro và chịu nhiều áp lực lớn.

Tăng trưởng tín dụng còn khó khăn, nợ xấu có nguy cơ gia tăng; giải ngân vốn đầu tư công thấp hơn so với cùng kỳ năm 2023. Cùng với đó, thị trường bất động sản đã có chuyển biến nhưng chưa rõ nét; áp lực trả nợ trái phiếu doanh nghiệp đến hạn vẫn rất lớn.

“Năm 2025, Việt Nam có thể có cơ hội đón nhận dòng vốn đầu tư từ các công ty Mỹ, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ cao và bán dẫn. Điều này có thể thúc đẩy quá trình hiện đại hóa công nghiệp. Sự kỳ vọng này xuất phát từ việc công ty công nghệ bán dẫn hàng đầu của Mỹ, Nvidia, đã quyết định chọn Việt Nam làm địa điểm đặt trung tâm R&D đầu tiên tại ASEAN. Những điều trên hy vọng có thể là cú hích để tạo động lực cho sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong năm 2025”.TS Phan Phương Nam

Một trong những yếu tố quan trọng với kinh tế năm 2025 chính là tỉ giá hối đoái và áp lực lạm phát từ bên ngoài vẫn là những yếu tố tiềm ẩn, ảnh hưởng đến sự ổn định của nền kinh tế. Xuất siêu chủ yếu vẫn dựa vào khu vực đầu tư nước ngoài, cho thấy tính tự chủ của nền kinh tế còn thấp... Điều này tạo ra sự bất ổn trước những thay đổi trong chính sách thương mại toàn cầu.

Đánh giá những khó khăn và thách thức của năm 2024, dự báo nền kinh tế Việt Nam trong năm 2025, theo TS. Phan Phương Nam, nợ xấu của ngân hàng năm 2024 vẫn cao, sở hữu chéo ngân hàng vẫn là vấn đề cần quan tâm giải quyết trong các năm tới. Về xử lý nợ xấu, Ngân hàng Nhà nước cần quyết liệt trong việc chỉ đạo các ngân hàng cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng khó khăn, phần nào đáp ứng được nguyện vọng của hầu hết ngân hàng khi nền kinh tế phục hồi chậm, nhu cầu tín dụng yếu, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong việc trả nợ, còn ngân hàng tránh được nguy cơ nợ xấu tăng cao.

Bên cạnh đó, việc phát triển thị trường mua bán nợ và tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường bất động sản khởi sắc trở lại là điều quan trọng không kém. Bởi, đa số nguồn vốn đang nằm tại thị trường này và đa số nợ xấu của hệ thống ngân hàng cũng là bất động sản, 80 - 90% tài sản thế chấp ngân hàng là bất động sản. Tuy nhiên, cũng cần chọn lọc lại các dự án bất động sản cho việc xem xét tái cấp vốn, hỗ trợ tài chính mà không tiến hành hỗ trợ tràn lan làm kém hiệu quả khoản vốn vay và có nguy cơ càng tăng tỷ lệ nợ xấu.

Đối với sở hữu chéo, theo ông Nam, vẫn là vấn đề tồn tại trong các ngân hàng. Mặc dù, giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phiếu đã được quy định nhưng vì hoạt động thanh tra, kiểm tra chưa chặt chẽ nên tình trạng sở hữu chéo vẫn còn nhiều làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các cổ đông nhỏ hơn trước sự thao túng của các cổ đông lớn. Do vậy, cần tăng cường trách nhiệm của cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng và chính các tổ chức tín dụng, cụ thể là với các thành viên hội đồng quản trị, thành viên ban giám đốc, ban điều hành, ban kiểm soát. Cùng đó, cần tạo điều kiện để Ban kiểm soát và thành viên hội đồng quản trị độc lập tại các tổ chức tín dụng thể hiện vai trò tốt hơn.

Ông cũng tin tưởng sẽ đạt được các kết quả như kỳ vọng, nhất là môi trường đầu tư kinh doanh sẽ được cải thiện. Việc tinh gọn bộ máy sẽ nâng cao hiệu quả, hiệu lực của quản lý nhà nước, điều tiết các vấn đề hoạt động kinh tế, hoạt động vĩ mô. Điều đó sẽ có tác động rất tốt đến hoạt động kinh tế nói chung, trong đó, có thị trường bất động sản. Bên cạnh đó việc quyết liệt của Đảng và Nhà nước trong hoạt động đầu tư công sẽ là động lực để tạo sự phát triển của nền kinh tế.

“Vấn đề quan trọng hiện nay là khâu kiểm tra giám sát vừa lỏng, vừa phiền phức, quy định không rõ ràng. Khi đã giao tiền thì doanh nghiệp Nhà nước phải có quyền mới thực hiện. Giao tài sản nhưng không tin, không giao quyền thì ai thực hiện? Phải có cơ chế cho họ làm. Khi đó doanh nghiệp Nhà nước mới có thể cất cánh”.

PGS.TS Đinh Trọng Thịnh