
Đội xuồng hơi thể thao và cứu nạn cứu hộ Đà Nẵng vào hỗ trợ cứu một em bé ra khỏi rốn lũ ở Tuy Hòa, tỉnh Đắk Lắk (Phú Yên cũ) - Ảnh: MAI XUÂN NHẬT
Tuổi Trẻ xin đăng bài viết của TS Nguyễn Đính (chuyên gia thủy văn học, Viện Công nghệ môi trường, Giảm nhẹ thiên tai và biến đổi khí hậu) nhằm rộng đường dư luận hơn.
Phản ứng chậm chạp, thiếu linh hoạt trước mưa lũ cực đoan, bất thường
Toàn bộ lưu vực sông Ba ở miền Trung nước ta rộng khoảng 13.000km2, trên đó hiện có 280 hồ chứa thủy lợi, thủy điện lớn nhỏ các loại với tổng dung tích chứa tới 1,6 tỉ m3. Thế nhưng chỉ có 6 hồ có thiết kế cắt, giảm lũ với tổng dung tích 530 triệu m3.
Thực tế là từ khi các hồ đập thủy điện trên hệ thống sông Ba được đưa vào khai thác, vùng hạ du sông Ba thuộc tỉnh Phú Yên trước đây (Đắk Lắk hiện nay) xảy ra nhiều đợt lũ lụt nghiêm trọng, đặc biệt lớn, thậm chí đạt, vượt giá trị đỉnh lũ lịch sử.
Trong đợt lũ lụt đặc biệt nghiêm trọng từ ngày 17-11 tới nay,
Sơ đồ hệ thống thủy điện trên lưu vực sông Ba - Ảnh: Tư liệu báo Tuổi Trẻ
Thứ nhất, dung tích cắt lũ của các hồ thủy điện trên sông Ba là quá nhỏ, thậm chí một số hồ không bố trí dung tích phòng lũ trong hồ sơ pháp lý. Từ đó dẫn đến hậu quả là hầu như không cắt lũ nổi, nhất là trong tình hình biến động rất lớn về mưa cực đoan như hiện nay.
Thứ hai, quy trình vận hành liên hồ chứa lưu vực sông Ba hiện nay nghiêng về an toàn hồ đập thủy điện mà chưa nghiêng về cắt giảm lũ hạ du. Vẫn biết ưu tiên số một là đảm bảo tuyệt đối an toàn đập bởi nếu đập bị vỡ, hậu quả càng thảm khốc hơn.
Thế nhưng điều mà chúng tôi muốn đề cập ở đây là các hồ thủy điện cần phải được thiết kế/điều chỉnh các hợp phần dung tích như dung tích chết, dung tích bảo đảm phát điện, dung tích phòng lũ, thậm chí dung tích siêu cao… mới mong thích hợp với tình hình thời tiết cực đoan như hiện nay.
Thứ ba là đa phần (không phải tất cả) các thủy điện trên sông Ba cũng như các tỉnh miền Trung được xây dựng chỉ với mục tiêu phát điện là chủ yếu, chứ ít quan tâm tới công tác cắt, giảm lũ cho hạ du. Nhất là các hồ đập thủy điện do chủ đầu tư tư nhân bỏ vốn.
Đa phần các thủy điện được thiết kế luôn đặt phần dung tích đảm bảo phát điện lên hàng đầu, giảm dung tích phòng lũ cố định, chỉ tận dụng dung tích còn trống trước khi mùa mưa lũ đến và coi như đó là dung tích phòng lũ. Đó chỉ là phòng lũ bị động, ăn may, chứ không phải là dung tích phòng lũ bắt buộc, mang tính chủ động để cắt, giảm lũ cho hạ du.
Do bị động như vậy, nên sau một vài trận lũ bé, lũ vừa đầu mùa, thủy điện phát huy được tác dụng. Nhưng đến các trận lũ lớn chính mùa hoặc cuối mùa thì tác dụng cắt lũ, giảm lũ của các thủy điện vô cùng bé, chưa nói đến việc có khả năng còn làm gia tăng rủi ro về lũ.
Từ thực tế trên, chúng ta cần phải đưa ra quy định bắt buộc về mặt pháp lý việc quy định dung tích phòng lũ đối với các hồ đập thủy điện.
Thời gian tới cần cấp thiết trao quyền điều chỉnh dung tích phòng lũ thông qua các chỉ số mực nước đón lũ thấp nhất, mực nước cao nhất trước lũ theo các thời đoạn trong mùa lũ, thời điểm, lưu lượng tích-xả trong quy trình vận hành liên hồ cho UBND các tỉnh, thành phố (đối với hệ thống liên hồ nội tỉnh) hay ủy ban hỗn hợp liên tỉnh, thành phố đối với hệ thống liên hồ hai tỉnh, thành phố trở lên.
Cố nhiên công tác trên cần phải đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, trước hết.
Ngoài ra vấn đề dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn, phối hợp liên hồ, cơ chế giám sát, cơ chế điều hành, "mua" dung tích phòng lũ (Nhà nước mua lại hồ thủy điện, chuyển đổi thứ tự ưu tiên thủy lợi thủy điện, tháo bỏ thủy điện nhỏ rủi ro cao…), trừng phạt, chế tài, đền bù thiệt hại, truy tố hình sự cũng cần được tính tới và thực hiện nghiêm.
Những vấn đề đề cập nói trên không chỉ thể hiện chỉ đối với các hồ chứa, thủy điện trên lưu vực sông Ba, mà còn cho hầu hết thủy điện trên các lưu vực sông ở miền Trung Việt Nam hiện nay.