Nhiều doanh nghiệp dệt may đạt lợi nhuận khủng
Chia sẻ với PV Tiền Phong, ông Lê Tiến Trường, Chủ tịch HĐTV Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) cho biết, mặc dù thị trường liên tục biến động, nhưng với sự chủ động, linh hoạt trong điều hành, Vinatex vẫn giữ được mạch tăng trưởng từ nửa cuối năm 2024. Kết quả 6 tháng đầu năm 2025, doanh thu hợp nhất của Vinatex ước đạt 9.035 tỷ đồng, tăng 8% cùng kỳ, lợi nhuận hợp nhất ước đạt gần 556 tỷ đồng, bằng 61% kế hoạch năm, tăng 97% so với cùng kỳ.
![]() |
![]() |
Doanh nghiệp dệt may đứng trước nhiều thách thức. Ảnh: Như Ý |
Theo ông Trường, việc Hoa Kỳ hoãn áp thuế đối xứng trong vòng 90 ngày cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn hàng lớn quay trở lại, với mức giá hợp lý và thời hạn giao hàng dài hơn. Việc có thêm các đơn hàng mới và đẩy nhanh tiến độ giao hàng trước ngày 5/7/2025 đã kéo theo tốc độ tăng trưởng lợi nhuận của nhiều doanh nghiệp ngành dệt may như Thành Công, May Sông Hồng lên tới 200% - 300%. Đây là mức lợi nhuận đáng kể đối với nhiều doanh nghiệp dệt may.
Ông Trường cũng cho rằng, dù đạt kết quả tốt trong các tháng đầu năm nhưng cũng không thể nhìn số liệu hiện nay để đánh giá 6 tháng cuối năm thế nào. Hiện cả khách hàng và người sản xuất trong hợp đồng đã ký đều thận trọng, hai bên phải giữ lại một số nội dung để tiếp tục thỏa thuận. Đó chính là mức thuế đối ứng của Mỹ dành cho hàng hóa nhập từ Việt Nam tới đây ở mức nào thì hai bên sẽ gặp lại để đàm phán mức giá cuối cùng của đơn hàng.
“Tháng 7 là tháng sản xuất thì phải chuẩn bị từ tháng 5 và tháng 6. Nhiều doanh nghiệp hiện chấp nhận chỉ lấy đơn hàng đủ làm. Tháng 8, tháng 9 cũng vậy, để xem giá đơn hàng sẽ biến động ra sao sau khi có kết quả thuế quan cuối cùng. Hàng sản xuất tháng 8 và 9 là hàng sản xuất cho mùa đông. Vì vậy, mức thuế áp thêm sẽ ảnh hưởng rất lớn đến doanh nghiệp. Tính đến thời điểm hiện tại, các đơn vị ngành may của Vinatex đã nhận đơn hàng đến hết tháng 9”.
Ông Lê Tiến Trường, Chủ tịch HĐTV Vinatex
Theo Chủ tịch Vinatex, mức thuế quan áp với Việt Nam bao nhiêu không quan trọng mà cần xét trên tương quan mức thuế áp cho các nước khác thế nào. Hiện không có nước nào trên thế giới làm dệt may mà không có tỷ lệ xuất xứ lớn từ Trung Quốc. Hàm lượng xuất xứ nguyên liệu từ Trung Quốc trong hàng dệt may Việt Nam không cao hơn bình quân của thế giới. Trong khi tiêu chí về xuất xứ hàng hoá không áp dụng riêng với Việt Nam mà cả với các nước khác, vì vậy các doanh nghiệp dệt may vẫn cần phải đợi kết quả cuối cùng về mức áp thuế sẽ biến động ra sao trong thời gian tới.
Về lo ngại sẽ có làn sóng dịch chuyển sản xuất ra khỏi Việt Nam nếu mức thuế đối ứng tăng cao, ông Trường cũng cho rằng, với ngành công nghiệp nhẹ, thường chỉ mất khoảng 18 tháng là có một nhà máy mới. Nếu các chủ doanh nghiệp tính toán, thấy việc dịch chuyển là có lợi thì họ sẽ thực hiện.
“Khi bị tăng thuế quan, đơn giá bán ra sẽ tăng lên và nhu cầu sẽ giảm một chút. Tuy nhiên, quần áo, đồ ăn uống là mặt hàng thiết yếu nên sẽ khó có thể giảm nhu cầu nhiều. Quần áo nếu có giảm thì cũng chỉ giảm xuống một ngưỡng nhất định, không thể giảm được nhiều hơn nữa. Việt Nam là một trong 6 nước được ưu tiên đàm phán đợt này với Mỹ. Các doanh nghiệp vẫn phải chờ việc định hình tốt hơn về thuế quan, lúc đó mới tối ưu được chi phí”, ông Trường nói. Ông cũng cho rằng, trước mắt, các doanh nghiệp phải ổn định thị trường xuất khẩu, giữ vững đơn hàng từ Mỹ, Nhật, EU và tập trung khai thác thêm thị trường mới, tránh mất thị phần do cạnh tranh giá rẻ. Cùng với đó, cần tối ưu hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị, tăng năng suất, kiểm soát tốt chi phí và phát triển các sản phẩm ngách, tạo giá trị riêng.
Sức ép chuyển đổi
Ông Nguyễn Ngọc Bình, Tổng Giám đốc Tổng Công ty CP Dệt May Hòa Thọ cho biết, thời gian qua, doanh nghiệp liên tục phải thay đổi để đáp ứng các yêu cầu của khách hàng trong giai đoạn dừng áp thuế đối ứng 90 ngày.
Về đơn hàng giai đoạn sau ngày 10/7/2025, ông Bình cho biết, trong một tháng gần đây, tình hình các đơn hàng mới từ khách hàng Hoa Kỳ cho tháng 8 trở đi diễn ra rất chậm, thậm chí có trường hợp ngưng hẳn. Nguyên nhân chủ yếu do khách hàng cần theo dõi và đánh giá lại tình hình mua hàng, tiêu thụ, tồn kho và các tác động từ chính sách thuế mới. Nhiều khách hàng đã cắt giảm số lượng đơn hàng so với dự kiến hoặc đàm phán với mức giá giảm sâu, kể cả với hàng CM và FOB (nhà sản xuất chịu trách nhiệm toàn bộ quá trình từ sản xuất, mua nguyên vật liệu, cho đến khi sản phẩm hoàn thành và vận chuyển đến cảng). Một số khách hàng quyết định chuyển đơn hàng sang nhà máy tại Bangladesh hoặc giữ sản xuất tại Trung Quốc. Tuy nhiên, Hòa Thọ cũng ghi nhận có một số đơn hàng chuyển dịch từ Trung Quốc sang, tập trung vào các lô giao trong tháng 6 và tháng 7. Hiện tại, các đơn hàng xuất sang Mỹ từ tháng 8 trở đi của Hòa Thọ giảm mạnh.
“Với hàng hóa xuất sang các thị trường ngoài Hoa Kỳ, đặc biệt là EU và Nhật Bản, tình hình đơn hàng hiện nay tương đương với các tháng cuối năm 2024. Các nhà máy sản xuất chuyên cho hai thị trường này của Hòa Thọ đã đảm bảo đủ đơn hàng. Bộ phận kinh doanh đang tiếp tục tập trung khai thác sâu hai thị trường EU và Nhật Bản, vừa duy trì khách hàng cũ vừa mở rộng tìm kiếm khách hàng mới”, ông Bình cho hay.
Ông Nguyễn Hùng Quý, Tổng Giám đốc Công ty TNHH TCT Dệt May Miền Nam (VSC) cho biết, hiện tại, VSC đã nhận đủ đơn hàng để sản xuất đến hết tháng 8. VSC đã chủ động phát triển thêm các thị trường khác như châu Âu và Anh. Tỷ trọng đơn hàng từ các thị trường này trong những tháng cuối năm đã tăng cao hơn đáng kể so với đầu năm.
“Chúng tôi đã nhận được một số yêu cầu giảm giá từ từng đối tác. Tuy nhiên, hiện VSC vẫn giữ quan điểm chưa điều chỉnh giảm giá ngay mà sẽ chờ thêm các tín hiệu rõ ràng từ thị trường.
Về nhận định thị trường, chúng tôi đánh giá nếu mức thuế đối ứng được đàm phán tăng thêm trong khoảng 15 - 20%, vẫn là ngưỡng chấp nhận được đối với thị trường Việt Nam. Đồng thời, chúng tôi kiến nghị cần minh bạch trong chứng nhận xuất xứ, đặc biệt với những đơn hàng sử dụng nguyên phụ liệu có nguồn gốc từ Trung Quốc”, ông Quý cho hay.
Về tác động của thuế quan từ Hoa Kỳ, ông Trương Văn Cẩm, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS) cho rằng, việc Hoa Kỳ áp thuế không chỉ tạo ra thách thức, lo ngại nhất chính là đầu tư nước ngoài ở Việt Nam. Các doanh nghiệp FDI đang chiếm 60% xuất khẩu hàng dệt may ở Việt Nam và xuất rất lớn vào Hoa Kỳ. Nếu không đàm phán được mức thuế phù hợp, sẽ dẫn đến tình trạng doanh nghiệp (DN) FDI thu hẹp sản xuất, thậm chí rút khỏi Việt Nam. Tuy nhiên, đây cũng là cơ hội cho các doanh nghiệp Việt. “Có những doanh nghiệp ở Bắc Giang chuyên sản xuất hàng giá rẻ, không cần thiết kế, nhưng có mức lợi nhuận rất cao. Việc áp thuế cũng là áp lực để các doanh nghiệp thay đổi về phương thức xuất khẩu, phải tự thiết kế, đặc biệt là tự chủ nguyên phụ liệu”, ông Cẩm cho hay.
Theo lãnh đạo VITAS, công nghiệp hỗ trợ của dệt may hiện rất yếu, phải nhập hơn 60% từ Trung Quốc. Để giải bài toán hiện nay, các doanh nghiệp cần tính tới tự lực tự cường về nguyên phụ liệu, trong đó có cả việc mời các doanh nghiệp từ Trung Quốc sang Việt Nam để nâng tỷ lệ nội địa hóa.
Đánh giá Hoa Kỳ hiện vẫn là thị trường triển vọng và nhiều cơ hội cho xuất khẩu dệt may, giày dép Việt Nam, ông Đỗ Ngọc Hưng, Trưởng Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ cho rằng, giày dép, giống như quần áo, phần lớn phụ thuộc vào các quốc gia khác để sản xuất. Sản xuất quần áo, giày dép đòi hỏi vốn lớn, máy móc hạng nặng và thâm dụng lao động và cần thời gian để xây dựng nền tảng. “Việc Hoa Kỳ tham vọng xây dựng và vực dậy năng lực sản xuất trong nước thông qua chính sách thuế quan sẽ là một nhiệm vụ khó khăn. Để Hoa Kỳ có thể đảm bảo một quy trình đầy đủ sản xuất toàn bộ một đôi giày trong nước sẽ cần các ngành công nghiệp phụ trợ cung cấp đầy đủ nguyên liệu đầu vào trong khi các sản phẩm dệt may như áo, tất có thể được làm rất tốt ở những nơi khác”, ông Hưng nhận định.


